|
bài viết
Trịnh Công Sơn - ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật (t -th)
--- Bùi Vĩnh Phúc ---
(tiếp theo và hết)
Không Gian Trời Đất: Trời đất là không gian lớn rộng để Trịnh Công Sơn và những con người, những chủ thể trong thế giới của anh, đi về. Nhưng trước hết, đó là nơi đi, về của chính anh: Trời cao đất rộng một mình tôi đi, một mình tôi đi Đời như vô tận một mình tôi về Một mình tôi về, với tôi (Lặng Lẽ Nơi Này) Trong không gian ấy, anh lắng nghe và cảm nhận được hết cái im lặng của đất trời. Và của lòng mình. Đời rộng thênh như im vắng tiếng rơi khô. Nhưng, cũng có khi, lạc vào vùng không gian mênh mông ấy, anh như tìm thấy ở nó những biểu tượng tôn giáo. Không gian đất trời, bây giờ, kéo anh (và những chủ thể trong thế giới của anh) xích lại với những không gian trong Kinh Thánh, trong Cựu Ước: Mặt trời hãy ngủ yên / Xin mặt trời hãy ngủ yên Người hãy nhớ mang theo hành trang / qua khung trời vắng chân mây địa đàng (Xin Mặt Trời Ngủ Yên) Ôi môi hờn / xin đừng / kể lại tích xưa buồn hơn Đợi chờ năm Làm gió qua truông thiên đàng (Vết Lăn Trầm) Trời đất trong anh cũng còn là một trang giấy, một ấn bản của những giấc mơ mà anh có giữa đời. Đó chính là những giấc mơ trong lòng anh, những giấc mơ nhiều khi trở nên hiện thực hơn khi con người mở mắt: Trời còn in dấu chim xa nguồn Đời còn bay những cơn mưa phùn (Khói Trời Mênh Mông) Tình đi âm thầm / Nghìn trùng như vết sương Lạnh lùng như dấu chim Tình mong manh như nắng Tình còn đầy không em? (Tình Sầu) Nói trời đất là một ấn bản của những giấc mơ giữa đời của Trịnh Công Sơn thì có thể cũng đúng. Nhưng, có lẽ đúng hơn, nó chính là một tấm phông lớn, một màn ảnh lớn để anh nhìn ra những mộng ảnh, những hư ảnh, những thực ảnh hay những hiện ảnh của đời mình. Đây có phải là thực ảnh: Ta về nơi đây thoáng nghe gió lạnh Hết mùa thu sang đã đến ngày đông Những hàng cây xanh đón em áo lộng Bây giờ ta nhìn khói trời mênh mông (Khói Trời Mênh Mông) Và đây có phải là mộng ảnh: Tình ngỡ đã quên đi như lòng cố lạnh lùng Người ngỡ đã xa xăm bỗng về quá thênh thang Ôi áo xưa lồng lộng đã xô dạt trời chiều Như từng con nước rộng xóa một ngày đìu hiu (Tình Nhớ) Còn đây là hiện ảnh chăng? Mây và tóc em bay trong chiều gió lộng Trời làm cơn mưa xanh dưới những hàng me (Tuổi Đời Mênh Mông) Và đây là hư hay là thực, hay đó chỉ là một chút phù ảnh khi người nghệ sĩ nhìn mây bay ngang đầu mà gọi thầm tên em: Có còn trong em những đêm gió lộng Ngồi bên hiên nhìn bến nước đầy dâng Có còn trong em những cây nến hồng Những cầu qua sông những chút tình duyên Gió trời lênh đênh nhớ con phố hẹn Ta nhìn ta về giữa trời hư không (Khói Trời Mênh Mông) Trịnh Công Sơn hỏi thầm trong lòng mình về những cơn mơ đời đã là rất thực mà cũng là rất hư ấy. Chân hay mộng thì những phiên bản của trời đất kia gửi tới cho anh cũng chỉ làm anh nhận thức được rõ thêm một điều này: đất trời quá bao la và con người quá nhỏ bé. Đôi khi do những cảm xúc chủ quan và thiết tha của mình, anh đã nâng lên thành cận ảnh những đường nét yêu dấu trong đời, ôi áo xưa lồng lộng đã xô dạt trời chiều, nhưng anh biết rằng con người chỉ là một hạt bụi trong cõi trời đất thiên thu này. Ý nghĩ về sự mênh mông, bao la của không gian lại làm anh đụng chạm đến một nỗi ám ảnh lớn khác của mình: ám ảnh về thời gian: Rộng nghìn thu một tà dương ấy ... Vàng phai sẽ cuốn đi mịt mù (Vàng Phai Trước Ngõ) Và ám ảnh về thời gian, lại dẫn Trịnh Công Sơn, và cả chúng ta, đến một không gian khác trong tâm hồn của chàng nghệ sĩ. Không Gian Núi và Biển: Trong Trịnh Công Sơn, có một không gian ở dưới thấp, thu gọn lại nơi những con phố và những quán xá, nơi anh thường tìm thấy mỗi ngày hình ảnh của chính mình và những khuôn mặt bè bạn cũng như những người nữ thiết tha mà anh có trong đời; nhưng cũng có một không gian ở trên cao, như núi, trầm ngâm, chờ đợi, và một không gian ở khá xa, nhưng vẫn ầm ì tiếng gọi, như biển. Núi và Biển là những không gian vật lý, chắc chắn thế. Nhưng càng chắc chắn hơn trong thế giới âm nhạc của Trịnh Công Sơn, đó là những không gian tâm trạng. Núi và biển đều là những biểu tượng lớn trong thế giới của anh. Khi anh nói “Về bên núi đợi”, hay “buồn lên núi nằm xuống”, không có nghĩa thật là anh sẽ trèo lên núi hay về sống bên núi để làm cái công việc đợi chờ hay nghỉ ngơi (!) kia. Trịnh Công Sơn muốn nói đến một cái gì khác. Cái đó chúng ta ai cũng biết. Ngoài ra, trong anh, núi còn có thể đưa đến những liên tưởng khác nữa. Cũng thế, đối với Biển. Trước hết, hãy trở lại với những núi non trong Trịnh Công Sơn. Trước hết, núi là một điểm hẹn. Một điểm hẹn trăm năm. Khi con người, dù như một ngọn gió kia, đã thấy mệt mỏi với đôi cánh lang thanh của mình: Cuồng phong cánh mỏi Về bên núi đợi Ngậm ngùi ôi đá cũng thương thay (Chiếc Lá Thu Phai) Vẫn ngọn gió mệt mỏi ấy. Bay về. Nó thiết tha quay về điểm hẹn: Chợt như xác thân không còn Tưởng mình như là cơn gió Về chân núi thăm nấm mồ (Lời Thiên Thu Gọi) Tôi như là người ngồi trong đêm dài nhìn tôi đang quá ngậm ngùi ... Một hôm buồn lên núi nằm xuống (Tự Tình Khúc) Tại sao chàng nghệ sĩ lại muốn trở về núi. Có phải vì chàng mong ước rằng, nơi núi, ở bên kia của núi, chàng sẽ tìm lại được những yêu dấu cũ. Chàng sẽ dựng lại được những kỷ niệm tươi đẹp bên người: Người đã đến và người sẽ về bên kia núi Từng câu nói là từng cánh buồm giong cuối trời Còn lại tiếng cười khóc giữa đời (Cỏ Xót Xa Đưa) Ngày xưa, khi người còn ở bên ta, ta đã dự cảm một cuộc chia ly loang màu xanh xẫm của núi chiều, hay màu tím than của dáng đêm đổ đầy trên bóng núi. Ta đã dự cảm điều đó, và, thật sự, bây giờ, người đã đi xa. Chỉ còn lại ta đứng đây nhìn bóng núi. Và nghe tiếng núi thầm thì. Hay than vãn. Yama no Oto. Như Kawabata đã nghe, có lẽ trong suốt cuộc đời ông. Trịnh Công Sơn có những lúc đã muốn trở về. Núi là điểm hẹn. Núi là biểu tượng của một nơi xa xôi, hoang vắng, là một chốn cao và xa, thoát khỏi cuộc đời lắm mộng ảo, nhiều phiền tạp và bụi bặm này. Và núi cũng là một cứ điểm bền vững để người nhạc sĩ lui về cố thủ trong những lúc mệt mỏi với cuộc đời. Thế nhưng, đó có phải thực sự là nơi mà con người có thể lui về để kiếm tìm sự thực? Hay nó cũng vẫn nằm trong một cuộc mộng lớn hơn giữa chốn thiên thu này: Một chiều núi bỗng mang thân cánh đồng / thì cùng dòng nước khóc giùm (Một Lần Thoáng Có) Núi, như thế, chưa hẳn là một cứ điểm bền vững. Nhưng nó vẫn cứ là một biểu tượng của cuộc hẹn hò trăm năm trong lòng Trịnh Công Sơn. Anh đã cùng dòng nước khóc cuộc ra đi của núi. Nước, như thế, là sự vỗ về, là sự che chở, cưu mang ta. Từ đó, ta cũng hiểu rằng biển chính là sự vỗ về, an ủi và cưu mang thiết tha đó. Và ai, nếu không phải là em, đã hòa thân và hóa thân vào biển. Biển luôn mang đặc tính nữ trong thế giới của nghệ thuật của con người. La mer. Những tiếng nhạc mênh mang ôm đỡ và vứt đẩy ta vào những vùng lênh đênh xanh. Người Tây-ban-nha cũng xem biển mang đầy nữ tính. La mar. Chỉ có bọn chài tuổi trẻ hung hăng là có những lúc nhìn biển trong vẻ nam tính của nó để muốn mang thân mình ra đọ sức cùng. Chúng gọi Biển là El mar. Nhắc lại những điều này làm chúng ta lại nhớ đến Hemingway (8) Núi và biển như thế là ôm ấp, gắn bó với nhau. Như trong những suy nghĩ của Trịnh Công Sơn về trời đất: Trong khi ta về lại nhớ ta đi Đi lên non cao đi về biển rộng (Một Cõi Đi Về) Núi là nơi để nằm xuống, để trả về. Nhưng biển là nơi để tâm sự, để thầm thì kể lể: Người tìm về biển xanh / nói thầm về đời mình Ăn năn dấu rêu phong (Lời Của Dòng Sông) Biển là sự dịu dàng mềm mại, trùng trùng ngoài khơi nước lên sóng mềm. Biển luôn luôn là nơi cất giấu hay lưu giữ những gì thân thiết, đẹp đẽ và dịu dàng ở nơi em: Tóc người dòng sông xưa ấy đã phai Đã lênh đênh biển khơi (Có Một Dòng Sông Đã Qua Đời) Biển có khi là nơi chốn em về, để cho tôi hoang mang tìm kiếm. Nào tôi có biết em vẫn đang chờ mong một lời hò hẹn: Chân nhuộm phố phường em về biển xa Bàn chân thoát chốn lao tù Em về đứng chờ dưới ngọn tình ca (Góp Lá Mùa Xuân) Thế nhưng, có khi biển cũng mang tâm sự của con người, hoài mong và tiếc nhớ. Biển lên tiếng gọi, và cả không gian con người, bây giờ, cùng chia sẻ nỗi buồn đau của biển. Bởi lẽ, hình như đó chính là nỗi đau của con người được biển ôm giữ hộ trong lòng. Và tiếng biển đó, thật ra, chỉ là tiếng vọng âm của con người quắt quay trong nỗi hoài nhớ của chính mình. Biển Nhớ đã là một trong những bài hát đẹp và buồn, mang tính cách Trịnh Công Sơn nhất trong thập niên sáu mươi, một thập niên mà xã hội miền Nam Việt Nam và con người sống trong xã hội ấy đang có những chuyển mình thay đổi một cách tàn khốc. Giai đoạn đó là một cơn đau dài. Nhiều giá trị xã hội cũng như nhiều giá trị con người, mặc dù không hẳn là toàn vẹn về mọi mặt, nhưng đã được thiết lập một cách khá bền vững trước đó và mang lại cho con người một sự bình an tạm bợ, nay đang vặn mình trong một cơn thoát xác. Những cơn lốc bắt đầu cuốn lên. Tiếng gọi của Biển Nhớ, bây giờ, nghe lại, thấy như là tiếng gọi xót xa, đau đớn về một điều gì êm đềm, tha thiết đã không còn nữa. Đặt nó trong nhịp thở chung của thời đại, và thử đối chiếu nó với nét đẹp dịu mềm và tha thiết, đằm thắm, một sự tha thiết phản ánh cái bình an của hơi thở con người, của bài Nắng Chiều của Lê Trọng Nguyễn chẳng hạn, ta sẽ thấy là Biển Nhớ mang trong nó hơi thở của thời đại mà nó ra đời biết bao (9): Ngày mai em đi / Biển nhớ tên em gọi về Gọi hồn liễu rũ lê thê / Gọi bờ cát trắng đêm khuya (...) Ngày mai em đi / Biển nhớ em quay về nguồn Gọi trùng dương gió ngập hồn Bàn tay chăn gió mưa sang Ngày mai em đi / thành phố mắt đêm đèn vàng Hồn lẻ nghiêng vai gọi buồn Nghe ngoài biển động buồn hơn (...) Ngày mai em đi / Biển nhớ tên em gọi về Triều sương ướt đẫm cơn mê / Trời cao níu bước sơn khê Ngày mai em đi / Cồn đá rêu phong rũ buồn Đèn phố nghe mưa tủi hờn (...) Ngày mai em đi / thành phố mắt đêm đèn vàng Nửa bóng xuân qua ngập ngừng Nghe trời gió lộng mà thương
Không Gian Sông: Đây cũng là một không gian ám ảnh của Trịnh Công Sơn, người nhạc sĩ. Nhưng không như Biển, Sông thường là gần gụi với con người hơn, về khía cạnh địa lý cũng như về khía cạnh tâm trạng. Thường, sông quấn quanh không gian cuộc sống của con người và đem lại cho con người những mơ ước thoát dòng. Những không gian cuộc đời nhiều khi quá chật hẹp và làm con người cảm thấy bí bức. Sông cho con người một lối thoát. Sông sẵn sàng nghe những lời tâm sự của người, và chở những mơ ước của nó đi xa. Hoặc, có khi, sông nâng những mơ ước của con người lên cao, thành mây, rồi thành mưa. Như thế, sông là người bạn mà con người gần như luôn luôn có thể tin cậy được. Sông bồi đắp và nuôi dưỡng. Và khi những mơ ước của con người được sông đưa lên cao để nở giữa trời, sông quả thật đã dìu con người và khiêu vũ với nó giữa cuộc thênh thang trời đất: Những dòng sông nối đôi tay liền với biển khơi ... Con sông là thuyền / mây xa là buồm Từng giọt sương thu hết mênh mông (Bốn Mùa Thay Lá) Sông mở rộng không gian cho con người. Và có khi, nó dìm chết một ngày của đời người trong vũng không gian ấy. Dòng sông nắng cho bờ bến rộng... Một dòng sông chở ngày hấp hối (Vàng Phai Trước Ngõ) Nhưng, dù sao đi nữa, sông với người vẫn gần như luôn cần có nhau. Bởi vì, hai thực thể đó, có lẽ đã là những chiếc bóng của nhau. Sông đã giữ gìn hình ảnh của con người trong nó. Và con người, không phải nó vẫn luôn mang trong lòng một dòng sông hay sao? Một dòng sông êm đềm hay một dòng nước cuồn cuộn chảy. Để con người nghe ra những tiếng thời gian. Thế nên, nếu có một lần nào đó người bỏ đi, dòng sông kia còn lại gì? Người ra đi bến sông nằm lạnh Này nhân gian, có nghe đời nghiêng? (Có Nghe Đời Nghiêng) Bởi lẽ ấy, rồi người lại trở về. Sông ôm ấp, gìn giữ và chở đi xa những mơ ước hay những dấu buồn đau của con người: Dường như bão qua / dòng sông nước lên Đời không có mưa mà vẫn ướt mềm (Gần Như Niềm Tuyệt Vọng) Tìm lại trên sông những dấu hài (Đóa Hoa Vô Thường) Một dòng sông sâu / chở hồn thương đau (Em Đi Trong Chiều) Chính vì sông là nguồn an ủi, là nơi ôm ấp những thiết tha, đau đớn của ta, là nơi rửa sạch những vết thương mà ta có thể bắt gặp giữa đời này, Trịnh Công Sơn (và cả người nữ của anh) thường tìm về với sông để kể lể, hỏi han. Người tìm về dòng sông / hỏi thầm về đời mình. Thậm chí, sông còn là nơi để nhận giữ những lời trăn trối cuối: Một chiều em đứng cuối sông / Gió mùa thu rất ân cần Chở lời kinh đến núi non / Những lời tình em trối trăn (Đóa Hoa Vô Thường) Cũng chính vì biết em đã ra sông để thả bay những lời trối trăn trong nắng, Trịnh Công Sơn, khi đi tìm em, cũng đi về dòng sông ấy. Vì anh hiểu rằng, sông kia đã trở nên một điểm hẹn giữa hai người: Gọi em cho nắng chết trên sông dài (Hạ Trắng) Còn một lời gọi nào đẹp hơn thế? Người nhạc sĩ đứng bên bờ sông và gọi người yêu của mình. Anh gọi mãi, gọi mãi. Cho đến khi chiều hấp hối. Và chết trên dòng sông trắng. Tưởng như tiếng gọi đã đụng vào cõi vô biên. Sóng: Biển, sông, cũng như núi, đó là những bến hẹn. Những điểm đợi của con người. Nhưng một trong những biểu hiện của sông và biển là sóng. Sóng là tiếng nói của cả hai. Sóng là những nỗi dội đập của lòng ta trong lời sông, tiếng biển. Thật ra sóng cũng là ta, và ta là sóng. Làm sao tách hai ra được. Đó là sự phân thân. Bởi thế, khi ta nói với sóng, thì cũng chính là ta nói với ta. Đó là những lời tự nhủ thầm. Đó là những tiếng kêu trong ta. Để nhắc rằng ta vẫn còn những cảm nhận, những đau đớn xót xa buốt sắc trong lòng. Làm sao sóng không hiểu? Chỉ có người với người là còn có những lúc không hiểu nhau, còn có những lúc quay mặt đi. Nhưng sóng là ta, ta là sóng, làm sao sóng không hiểu những tiếng kêu đau đớn của chính mình? Biển sóng biển sóng đừng xô nhau Ta xô biển lại sóng về đâu? Sóng bạc đầu / và núi chìm sâu Ta về đâu đó (...) Biển sóng biển sóng đừng xô nhau Ta xô biển lại sóng nằm đau Biển sóng biển sóng đừng xô tôi Đừng xô tôi ngã giữa tim người (Sóng Về Đâu?) [...] Mưa: Có mây thì phải có mưa. Đó là hai mặt gắn bó của đời sống tự nhiên. Thật ra, mây và mưa cũng chỉ là một. Như vui và buồn. Như nụ cười và giọt nước mắt. Đó chỉ là những cách nói. Thực ra, mưa dễ nhắc con người đến những kỷ niệm buồn của đời sống. Như những cơn mưa bay nghiêng trên tầng tháp cổ nhắc người ta về những cơn đau vùi lúc người ta nằm nhớ người yêu. Đó là những ngày khởi đầu thế giới Trịnh Công Sơn mở ra với chúng ta, làm chúng ta bỗng thấy rằng ở trong những cơn mưa hình như còn có những điều khác nữa: Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ (...) Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua Trên bước chân em âm thầm lá đổ Chợt hồn xanh buốt cho mình xót xa... (Diễm Xưa) Trịnh Công Sơn nghe mưa để thấy đời biển động. Ngoài kia dâng lên tiếng sóng. Anh nghĩ về những bia đá lạc loài, những đời sỏi đá buồn thảm để nghĩ đến thân phận của chính mình. Và thân phận của con người. Làm sao em biết bia đá không đau? Câu hỏi khơi dậy tư tưởng vạn vật nhất thể. Nó đánh bật lên một hơi lửa ấm trong cảm xúc của con người. Hơi lửa mong tìm sự sẻ chia và đồng cảm. Lúc yêu Diễm, Trịnh Công Sơn vẫn còn trẻ lắm. Tiếng mưa đánh lên những ngọn lửa cho con người hơi ấm. Mưa còn làm tiếng ru, vỗ về con người, thôi ngủ đi em / mưa ru em ngủ / tay em kết nụ / nuôi trọn một đời / nuôi một đời người... Những tiếng mưa bốn chữ vẫn tiếp tục làm nhịp võng đong đưa. Mưa cũng nhắc ta đến những lời hò hẹn. Những giọt mưa, những nụ hoa, hẹn hò gặp nhau trước sân nhà. Đó là những giọt mưa làm cho những nụ hoa hạnh phúc. Hay ngược lại. Và chợt nhớ những cơn mưa hồng. Có lẽ trên cuộc đời này, Trịnh Công Sơn là người duy nhất giữ được mầu nắng hồng trong mây và giữ được mầu mưa hồng trong nắng. Những giọt mưa hồng ấy đã giữ được sự thủy chung với cội nguồn mình: Trời ươm nắng cho mây hồng / Mây qua mau em nghiêng sầu Còn mưa xuống như hôm nào / Em đến thăm mây âm thầm mang gió lên Người ngồi đó trông mưa nguồn / Ôi yêu thương nghe đã buồn Ngoài kia lá như vẫn xanh Ngoài sông vắng nước dâng lên hồn muôn trùng (Mưa Hồng) Cơn mưa hồng, cơn mưa thủy chung của mầu trời, rơi xuống thành người con gái đi trong phố xá Sài Gòn đẫm nước của mùa hạ: Mưa mùa mưa Sài Gòn mưa Mưa phố vai mưa mềm Bàn tay em đôi tay mùa hạ / Phố mưa tôi tìm (Mưa Mùa Hạ) Nhưng tiếng mưa bềnh bồng thánh thót nhất của Trịnh Công Sơn có lẽ vẫn là những tiếng mưa trong Tuổi Đá Buồn. Tiếng mưa ấy đã nghe một lần rồi thì không sao quên được. Tiếng mưa đánh trên những phím dương cầm của lá xanh, tiếnh mưa òa vang những nốt nhạc của mây trên cao, mây trôi từng phiến, và, đâu đó, từng vạt mây đánh chéo xuống thành những vạt mưa. Một cơn mưa kỳ ảo ướp mùi những đóa hồng tàn. Một cơn mưa nghe văng vẳng trong nó những tiếng chuông nhà thờ ngân thênh thang và đánh trầm trầm như những tiếng dương cầm ở những octave cao và trầm nhất. Cơn mưa bay ngang trên thành phố và làm rụng xuống rất nhiều giọt nước mắt của trời: Trời còn làm mưa mưa rơi mênh mang Từng ngón tay buồn em mang em mang Đi về giáo đường Ngày chủ nhật buồn còn ai còn ai Đóa hoa hồng cài lên tóc mây Ôi đường phố dài lời ru miệt mài ... Đóa hoa hồng vùi quên trong tay... Trời còn làm mưa mưa rơi thênh thang Từng gót chân trần em quên em quên... Đóa hoa hồng tàn hôn lên môi ... (Tuổi Đá Buồn) Và, cùng với cơn mưa, những tiếng chuông vẫn còn tiếp tục bềnh bồng gõ nhịp trong trái tim ta. [...] Mặt trời: Cùng với mặt trăng, đây là một biểu tượng xuất hiện theo một tần số cao trong thế giới nhạc ngữ của Trịnh Công Sơn. Mặt trời là nguồn sống, là dấu chỉ cho sự tiếp diễn của cuộc lữ thứ trên trần gian. Nhưng, đối với Trịnh Công Sơn, mặt trời cũng có khi mang trong nó những xót xa, những dấu hiệu của nỗi tuyệt vọng của con người. Thật ra, đó là một biểu tượng muôn đời vẫn tiếp tục soi dấu của nó mãi trên trần gian này. Nhớ Zarathustra của Nietzsche có lần đứng trên đỉnh núi cao mà nói với mặt trời về sự liên hệ của nó với con người. Nếu không có con người khốn cùng đang lăn lộn dưới mặt đất kia, mặt trời lấy đâu ra sự huy hoàng và tìm đâu ra được ý nghĩa cho sự tồn tại của mình? Đối với Trịnh Công Sơn, mặt trời trong mắt anh đôi khi được nhìn với con mắt nhận xét của đứa bé khôn ngoan mà một lần Khổng Tử đã gặp trên đường đi của mình. Mặt trời lúc xa lúc gần: Mặt trời lấp lánh trên cao vừa xa vừa gần (Bốn Mùa Thay Lá) Mặt trời xa đã bay về gần / Rơi trên sông rơi sau bờ thành Nhìn cỏ cây ráng pha mầu hồng / Nhìn lại em áo lụa thinh không (Níu Tay Nghìn Trùng) Mặt trời của Trịnh Công Sơn thật đẹp và thơ. Nó cũng có những nét thơ và đẹp như chiếc “tịch dương hồng” của Nguyễn Du. Mặt trời của Nguyễn Du mang trong nó một mầu cổ kính, tịch lặng. Nó rơi xuống , và lặng lẽ cháy, đỏ hồng trong chiều. Còn mặt trời của Trịnh Công Sơn mang trong nó cái dáng dấp và hơi thở phập phồng của thời đại. Hơi thở trong “tà áo lụa thinh không” kia. Hãy nhìn lại một lần nữa mặt trời của Nguyễn Du, và nhớ đến mặt trời của Trịnh Công Sơn, để nghe và cảm lại, một lần nữa, cái không khí của những thời đại: Hoàng Mai kiều thượng tịch dương hồng (Trên cầu Hoàng Mai, bóng chiều cháy đỏ) (Hoàng Mai kiều vãn diểu) Có thiền sư nhìn ra mặt trời là trái tim của con người (10). Nó là nhịp đập của sự sống con người. Nó gắn con người vào nhịp đập, vào trái tim của vũ trụ. Có phải là chính người nhạc sĩ cũng có những lúc nhìn ra điều đó không? Mặt trời nào soi sáng tim tôi... / Mặt trời soi một kiếp rong chơi (Cát Bụi) Nhưng mặt trời cũng có những khi tạo ra những ảnh hưởng có tính hỗn hóa. Mặt trời làm cho mọi thứ hóa ra những hình ảnh hỗn loạn, không nằm trong ý thức của con người. Con người như bị hôn mê đi dưới ảnh hưởng thôi miên của con mắt vĩ đại treo trên cao kia. Mặt đất im, mặt trời cúi nhìn. Hay, có khi ngược lại, chính trong lúc bị mặt trời thôi miên ấy mà con người nhìn ra những sự thật của đời sống, những sự thật không bị những ảo tưởng đời che chắn khiến cho chúng thường mang dáng dấp của những mộng-ảo-thật trong mắt người. Mặt trời giúp mở ra một cái nhìn vào hiện thực: Trên đời người trổ nhánh hoang vu / Trên ngày đi mọc cành lá mù Những tim đời đập lời hoang phế / Dưới mặt trời ngồi hát hôn mê Dưới vòng nôi mọc từng nấm mộ / Dưới chân ngày cỏ xót xa đưa (Cỏ Xót Xa Đưa) Mặt trời có thể tạo ra những cơn hôn mê; nó cũng có thể giúp đưa con người vào cái nhìn xuyên suốt để đi đến sự tìm hiểu cấu trúc của hiện thực. Nó cho ta một cái nhìn vào trái tim của thực tại. Nó là sự có mặt cần thiết cho cuộc sống của con người trên trần gian này. Trong tất cả những ý nghĩa vừa có tính vật lý (physical) vừa có tính siêu hình (metaphysical) của nó. (...) [...]
Không Gian Phố: Trước hết, đối với Trịnh Công Sơn, phố là nơi có những mặt người, những mặt người xa lạ cũng như những mặt người thân quen. Phố là nơi có sự sống, sự sống cứ mãi tiếp diễn và như một dòng chảy vô tận. Phố là sự sinh động. Với những quán xá, những con đường. Trong phố có nắng, có mưa, có những lá cây và có những cỏ hoa lấp lánh. ở phố, con người có thể tìm ra mọi dạng thức của đời sống. Trong phố, con người có thể thấy được đủ mọi nét vẽ của cuộc đời. Trong đó, có những nét nhạc vui và những tiếng nhạc buồn. Có những thiết tha và có những khổ lụy. Có những nụ cười, có những giọt nước mắt, có vị mặn đắng của đời sống, và có những chất ngọt thơm của cuộc đời. Hãy xem thử một cuộc triển lãm về phố trong thế giới của Trịnh Công Sơn. Trước hết là một con phố hồng, một con phố lạ. Nó đẹp và tươi đến độ chúng ta cảm thấy là nó không có thật giữa cuộc đời này. Nhưng nó đã mọc lên giữa lòng ta qua mắt nhìn của người nhạc sĩ: Trời đất kia, có hay ta về Một phố hồng, một phố hư không Đường lên cao, bước chân nhè nhẹ Sương, ô kìa, sương rơi bềnh bồng (Có Nghe Đời Nghiêng) Một phố vui. Với nắng và lá: Bên trời còn nắng / Lá trời còn xanh Phố còn người đông (Hãy Cứ Vui Như Mọi Ngày) Một phố có em, với hoa vàng, với trời hạ, với một thoáng hương mềm tha thiết, và với tiếng cười em thoảng bay, đâu đó, tưởng chừng như có như không: Em đến bên đời / hoa vàng một đóa Một thoáng hương bay / bên trời phố hạ (...) Em cười đâu đó giữa lòng phố xá đông vui (Hoa Vàng Mấy Độ) Và một phố hoa khác. Với em, trong một cảnh quay chậm, giữa những loài hoa vàng và tím. Và có thể với một chùm hoa giấy màu đỏ cam đong đưa. Tất cả bồng bế nhau, hơi nhòe đi trong nhịp chuyển động, trên nền đen của tóc: Đường phố em về / tóc cùng hoa quyến luyến (Thành Phố Mùa Xuân) Trịnh Công Sơn là con người của phố, một con người luôn nhớ phố phường. Anh không thể sống một ngày mà không xuống phố. “Từng ngày chôn chân nhớ phố lang thang” là nỗi khổ đau cụ thể của một người bị giam hãm trong bốn bức tường, không được nghe những tiếng nói bạn bè, những tiếng cười thân yêu. Hạnh phúc của anh là sự gặp gỡ tất cả những con người thân quen cũng như những con người xa lạ mà trần gian đã gửi đến cuộc đời này. Anh muốn dang rộng vòng tay để ôm lấy và yêu thương tất cả những con người: Gặp nhau trong phố, xin yêu khôn nguôi những thân người (Đời Cho Ta Thế) Người nhạc sĩ yêu những đường phố trần gian. Anh nhìn ra mọi vẻ mặt thân thiết của những đường phố đó: Đường phố dài một đường phố dài Đường phố này một chiều tôi tới Đi thong dong tôi chào vẫy mọi người Đường phố cười (...) Đường rất tình một đường rất tình Đường rất gần một ngày xưa lắm Khi chân qua bỗng nghe đầy tiếng chim Đường trái tim Đường tình yêu nghe tiếng ai nỉ non Đường hàm oan nghe tiếng ai than thầm Đường máu xương chờ lau hết dấu vinh quang Đường đến tôi chờ em đã quá lâu năm... (Có Những Con Đường) Trịnh Công Sơn đã đi qua nhiều loại phố phường khác nhau. Anh đã đi “về trên phố cao nguyên ngồi” để nghe “tiếng gà trưa gáy khan bên đồi” vắng. Anh đã đi thăm “phố xưa dấu đạn” để thấy những vết tích của “cỏ lá buồn tênh”. Những đường phố ấy buồn bã vì thưa vắng bóng người, và ở đó, “tháng năm quá rộng”, “khói trời mênh mông”, và đời lúc nào cũng vẫn “còn bay những cơn mưa phùn”. ở Huế, nơi quê hương của tâm hồn Trịnh Công Sơn, trong những đường phố của thành quách hoang vu, ẩm mốc, giữa đêm thâu vắng lặng với những “tiếng muôn trùng đẩy đưa”, anh nằm nghe ngóng cuộc đời: Nghe trăm tiếng ngậm ngùi / Nghe lăng miếu trùng vây Nghe xa cách cuộc đời / Nghe hoang phế cạnh đây Xin trên những đường dài / Cho nghe bước rộn vui Xin trên những nụ cười / Còn rạng rỡ mặt trời (Nghe Tiếng Muôn Trùng) Đó là hình ảnh những con đường ở Huế, như Trịnh Công Sơn trong một bài viết đã hé mở cho ta thấy, hay đó là những con đường của bất cứ nơi nào trên quê hương Việt Nam mà Trịnh Công Sơn đã phả cái tâm hồn rất Huế của mình vào. Nhưng, khi đến Hà Nội, Trịnh Công Sơn cũng bắt ngay được cái hình ảnh rất Hà Nội này, cái hình ảnh “nhòa phố mong manh nhòe phố mưa” mà Trần Anh Hùng cũng đã tìm thấy trong Mùa Hè Chiều Thẳng Đứng (À la Verticale de lõété). Trịnh Công Sơn đã bắt được cái hồn của những con phố cổ. Dòng nhạc của anh, ở đây, lan chảy thành một dòng dài với những ngoắt khúc bất chợt để làm thành những ngõ dài ngõ ngắn của Hà Nội. Trong dòng nhạc ấy và trong những ca từ mà anh đặt trên nó, có ai lại không thấy hiện lên tha thiết những con đường Hà Nội cổ xưa: Hà Nội mùa thu cây cơm nguội vàng Cây bàng ngói đỏ nằm kề bên nhau Phố xưa nhà cổ mái ngói thâm nâu Hà Nội mùa thu, mùa thu Hà Nội Mùa hoa sữa về thơm từng cơn gió Mùa cốm xanh về thơm bàn tay nhỏ Cốm sữa vỉa hè thơm bước chân qua... (Nhớ Mùa Thu Hà Nội) Phố luôn gắn liền với quán xá. Đó là những chiếc cửa sổ mở ra mở vào những tâm sự của nó. Có khi đó là một tâm sự buồn: Có chén rượu chờ trong quán đêm đêm (Bay Đi Thầm Lặng) Có khi người nhạc sĩ mong được làm cái quán kia, để chờ đón em vào. Để mong được chia sẻ những tâm sự vui buồn của em: Tôi xin làm quán đợi / buồn chân em ghé chơi (Biết Đâu Nguồn Cội) Trong những đường phố mà Trịnh Công Sơn đã đi qua đó, tình cờ, một hôm người nhạc sĩ gặp em, một ngày tình cờ biết em / là ngày lạ lùng biết trần gian. Sự gặp gỡ đó mang trong nó những hạt mầm hạnh phúc và bất hạnh lớn: Hôm chợt thấy em đi về bên kia phố Trong lòng bỗng vui như đời rất lạ Tôi tìm thấy tôi theo từng gót xa Làm lời lá bay trên đường đi Tôi tìm thấy tôi như giọt nắng kia Làm hồng chút môi cho em nhờ (...) Dưới phường phố kia có người nhớ em Nằm mộng suốt đêm trong thiên đường (Cho Đời Chút Ơn) Vẫn em. Và hạnh phúc ấy nghe như một tiếng chim bay trong thành phố: Em cùng lá tung tăng như loài chim đến Và đã hót giữa phố nhà (...) Bao đường phố em qua nắng lên đứng chờ (Tuổi Đời Mênh Mông) (...) Chính vì em là một nét xanh của lá, một nét tím của mây, một nét hồng của nắng, một nét trắng của mưa, một nét vàng của hoa, chính vì em là một nét mềm của tiếng chim kia, một nét vui của bờ tường ấy, nên khi em ra đi, phố trở nên trống vắng, như bức tranh thiếu cái sinh động của một linh hồn: Nếu thật hôm nào em bỏ đi Em bỏ đi Sau lưng em còn con phố dài Những hàng cây loan tin nhau rồi im tiếng nói Quanh đây hoang vu tiếng cười (Rơi Lệ Ru Người ) Trịnh Công Sơn nhắc lại những cảnh phố cũ. Đó là những điều thân thiết mà phố mang đến cho chúng ta. Đó là phố của tất cả mọi người; đồng thời, đó cũng là phố của chỉ hai người mà thôi. Phố là thế. Phố mở rộng cho tất cả, nhưng phố cũng gìn giữ những riêng tư cho mỗi hai người: Nhớ phố xưa quen / biết tên bàn chân Nhớ đèn đường từng đêm thao thức Sáng cho em vòm lá me xanh (...) Nhớ bạn bè chào nhau quen tiếng Phố em qua gạch ngói quen tên... Khi chiều xuống bên sông nước lên én nô đùa giữa phố nhà Có nắng vàng lạc trên lối đi (...) Trong lòng phố / mưa đêm trói chân Dưới hiên nhìn nước dâng tràn Phố bỗng là dòng sông uốn quanh (Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên) Phố là nơi gặp gỡ, phố là chỗ khởi đầu, thế nên, khi người con gái ra đi, tan loãng vào cuộc đời này, “em theo đời cơm áo / mai ra cùng phố xôn xao / bao nhiêu ngày yêu dấu tan theo”, hay khi bóng người đã khuất lấp mịt mù, “ngủ đi em đôi vai lụa mát / ngủ đi em da thơm quả ngọt”, Trịnh Công Sơn cũng vẫn không thể quên được những ngày yêu dấu cũ. Anh sống với cuộc hồi tưởng: Tôi đã đưa em qua nhiều phố Những sáng mênh mông tôi ngồi nhớ (Trong Nỗi Đau Tình Cờ) Nhìn lại những con phố, những con phố mà ngày xưa đã từng là những lưu điểm của hạnh phúc, đã là những điểm lập lòa ánh sáng và lấp lánh những tiếng cười vui, những sắc màu tươi thắm của đời, Trịnh Công Sơn lắng nghe lại những âm hao cũ. Lúc đó, chỉ còn nỗi buồn rớt lại, trong một không gian xa lạc và mất dấu: Giật mình nhìn quanh ồ phố xa lạ (Bên Đời Hiu Quạnh) Con người chợt nhận thức ra rằng tất cả cuộc đời bây giờ là lạ mặt: Bàn chân trong phố xa lạ nhiều Có người lòng như nắng qua đèo (Có Một Dòng Sông Đã Qua Đời) Tất cả những đường phố trong anh, bây giờ, đều đã chết. Còn nếu không, chúng chỉ là những chứng tích của sự buồn thảm. Không còn những ngày cũ, với ta nhìn “gió trời thênh thang / nhớ con phố hẹn”. Không còn những ngày đã xa rồi, như bản tính của bất cứ một người con gái nào, đùa vui với hạnh phúc trông ngóng của người yêu, em “tặng hết cho tôi một phố chờ”. Không còn những ngày tôi đã cùng em chạy trốn mưa trong thành phố cũ, “mưa phố vai mưa mềm / bàn tay em đôi tay mùa hạ phố mưa tôi tìm”. Có còn lại chăng chỉ là một nỗi quạnh hiu rụng đầy trong ta: Có đường phố nào vui cho ta qua một ngày Có sợi tóc nào bay trong trí nhớ nhỏ nhoi Không còn không còn ai / ta trôi trong cuộc đời... (Ru Ta Ngậm Ngùi) Phố, không có dáng em, bây giờ, chỉ còn là nỗi buồn đau của đời sống này kéo dài, kéo dài mãi. Phố xưa không còn là tiếng chim hót bay vào trời xanh, bây giờ “phố xưa nằm bệnh / đàn chim non réo bên vườn hoang”. Phố, đóa hoa hồng ngày xưa nở tươi trên môi cuộc đời, bây giờ, không có bóng em, nó chỉ còn là một nụ hồng “vùi quên trong tay”. Thành phố, “đóa hoa hồng tàn hôn lên môi” kia, bây giờ, chỉ là một cơn nhớ bay dài trong mưa, là vị mặn của một giọt thầm trên mắt, hay của nhiều giọt thầm như thế. Chợt nhớ những câu thơ cũ, về một nỗi đau khi bước trên thành phố nhầu nát và mất bóng em: Đi trên thành phố phai nhầu Bước chân xiêu vẹo nghe sầu vọng âm Lời em trên mắt âm thầm Khua chân phố nhỏ giọt đầm đìa tuôn (Hoài Khanh) Hình ảnh phố khi con người đã không còn bên nhau nữa chỉ mang toàn những nét xiêu vẹo và nhầu nát như thế. Nếu bị dầm trong mưa, hình ảnh buồn bã và khốn khổ ấy sẽ lại được càng làm cho rõ nét hơn. Và người đi trong phố, lúc đó, nghe đèn phố trong mưa kể lể những tiếng buồn qua ánh điện vàng. ánh điện vàng đó chính là ánh đèn soi chiếu những chiếc bóng hấp hối trong đời mình: Cồn đá rêu phong rũ buồn Đèn phố nghe mưa tủi hờn (...) Thành phố mắt đêm đèn vàng Hồn lẻ nghiêng vai gọi buồn (Biển Nhớ) Trịnh Công Sơn là một người thiết tha với phố, bởi lẽ, như đã nói, phố là bến đợi một thời của tuổi trẻ anh, là không gian in đẫm những hạnh phúc có thật mà anh tìm ra được giữa cuộc đời này. Phố, với anh, thật sự không còn là một khoảng không gian mang tính vật lý nữa. Nó đã trở nên một khoảng không gian tinh thần, tô đậm những hình bóng và những nhớ tiếc, xót xa có những tên gọi cụ thể trong hồn anh. Trong những phố ấy, đi đâu Trịnh Công Sơn cũng chạm mặt với những hạnh phúc cũ, mà nay đã trở nên những nỗi buồn. Những nỗi buồn mà anh vẫn mãi không muốn từ bỏ: Chiều một mình qua phố âm thầm nhớ, nhớ tên em Gió ơi, gió ơi bay lên / để bụi đường cay lòng mắt (...) Chiều qua bao nhiêu lần môi cười, cho mình còn nhớ nhau Chiều qua bao nhiêu lần tay rời, nghe buồn ghé môi sầu Ngày nào mình còn có nhau xin cho dài lâu Ngày nào đời thôi có nhau xin người biết đau (Chiều Một Mình Qua Phố) Người đi trên phố, và phố nhắc nhở người những cơn đau. Đau vì một người đã ra đi, một người đã về bên kia núi. Nhưng cũng có khi đau vì một người đã không còn bên cạnh ta nữa. Cho dù người vẫn còn đâu đó trong cuộc đời này, vẫn còn cười nói “đâu đó trong lòng phố xá đông vui”; nhưng thật sự, đời sống đã dạy cho con người biết rằng “trong cuộc bể dâu ôi trăm ngày phố xá cũng trôi theo / Trong hội trần gian ôi bao ngày yêu dấu cũng không còn”. Từ đó, cho dù, “có lần bàn chân qua phố thấy người / sóng lao xao bờ tôi”, thì người vẫn biết rằng tất cả mọi sự, như dòng nước kia, đã theo nhau chảy dưới chân cầu. Người đi trên phố, đi mãi đi mãi, và phố kia, bây giờ, như một mũi tên, bay tới đâm thẳng vào trái tim người. Phố đóng đinh ta trên cây thập tự: Tưởng rằng đã quên / cuộc tình sẽ yên Tưởng rằng đã quên / thân đau muốn nằm Vì từng bước em là từng mũi đinh cuồng điên (...) Tưởng rằng đã quên / cuộc tình sẽ yên Tưởng rằng đã quên / em qua phố rộng Một lời trối trăn còn tìm thấy trong đôi mắt (...) Tưởng rằng đã quên / tay em vẫn còn Dựng đời bão lên / làm từng vết thương hồn nhiên (Tưởng Rằng Đã Quên) Nhưng không phải phố chỉ là nơi cho Trịnh Công Sơn, con người ở vị trí chủ thể, cơ hội thẩm thấu những kinh nghiệm của đời mình. Phố còn là nơi để người nữ, con người đối trọng của anh, cảm nhận cuộc sống. Em là tôi và tôi cũng là em. Bởi thế, người nữ của Trịnh Công Sơn, như anh, cũng đã có những cơ hội cảm nhận đời với tất cả những gam màu, những sắc độ, và những cung bậc của nó. Nhưng, cũng như anh, hình như những cảm nhận sâu sắc nhất của con người ấy cũng đều nằm trong vùng hồi quang của những bất hạnh, xót xa và đau khổ: Chiều nay em ra phố về / thấy đời mình là những chuyến xe Còn đây âm vang não nề Ngày đi đêm tới / trăm tiếng mơ hồ Chiều nay em ra phố về / thấy đời mình là những đám đông Người chia tay nhau cuối đường Ngày đi đêm tới / nghe tiếng hư không (...) Chiều nay em ra phố về / thấy đời mình là những quán không Bàn im hơi bên ghế ngồi Ngày đi đêm tới / đã vắng bóng người Chiều nay em ra phố về / thấy đời mình là con nước trôi Đèn soi trên vai rã rời Ngày đi đêm tới / còn chút hao gầy (Nghe Những Tàn Phai) Phố, như vậy, chính là không gian tục lụy của Trịnh Công Sơn. Tục lụy với tất cả những hạnh phúc và khổ đau của nó, với tất cả những sắc độ và gam mầu của nó. Nếu rừng, núi, sông, biển, cho dù là những biểu tượng khá thân thiết với con người, vẫn có những khi mang những nét xa cách với nó, thì phố là một biểu tượng gắn chặt với những cảm nhận và thức nhận của con người về cuộc đời với đủ nét tân toan cam khổ này. Phố là không gian để con người sống cùng và sống với. Đó là một không gian nhỏ hẹp của cuộc đời, nhưng, qua nó, người ta nhìn ra những phản ánh của cuộc sống rộng lớn hơn ngoài kia. Như thế, phố, đối với Trịnh Công Sơn, là một không gian cắm mốc trong bản ngã của anh. Và, có lẽ, cũng đúng nữa, đó là một không gian cắm một dấu mốc rõ nét trong bản ngã của con người thời nay. Nó mang trong nó dấu ấn của cuộc sống và hơi thở của con người thời đại. Con Người, Những Bản Vị Trong Không Gian: Không gian của Trịnh Công Sơn mang chứa trong nó nhiều biểu tượng. Những biểu tượng ấy gắn vào con người và hòa quyện với nó. Con người của anh sống giữa thiên nhiên, đặt mình trong lòng thiên nhiên, và cũng phản ánh thiên nhiên qua chính nó. Nhưng, một nét đặc biệt nơi Trịnh Công Sơn là, con người trong thế giới của anh, nhất là người nữ, thường có khuynh hướng trở thành những bản vị để, qua đó, anh đo đạc, nhìn ngắm và hạnh phúc với thiên nhiên chung quanh. Trời đất, thiên nhiên, bây giờ, không còn là một bản vị chính yếu nữa để con người theo đó mà được mô tả, so sánh. Chính con người bây giờ là những bản vị. Những bản vị nhỏ bé và duyên dáng làm ngơ ngẩn cả đất trời. Ngày xưa, để tả Thúy Vân và Thúy Kiều, Nguyễn Du đã nói tới “mai cốt cách, tuyết tinh thần”, “khuôn trăng”, “nét ngài”, “mây”, “tuyết”, “làn thu thủy, nét xuân sơn”, “hoa ghen”, “liễu hờn”... Nguyễn Du đã lấy thiên nhiên làm thước đo để khen ngợi chị em Thúy Vân, Thúy Kiều. Vân, Kiều, như thế, được mang ra so sánh với thiên nhiên, cho dù sự so sánh, qua ngòi bút của Nguyễn Du, có phần hơi thiên vị hai người con gái duyên dáng và đáng yêu này. So sánh như thế là so sánh theo những ước lệ cổ điển, theo những quy phạm về văn chương mà Nguyễn Du, như một con người của thời đại mình, không thể tránh khỏi. Thiên nhiên là những bản vị, con người là những nét để bên cạnh. Nguyễn Du đã thực hiện được một sự so sánh tài tình: những nét để bên cạnh lại như nổi bật hơn cả những nét chính. Trong thế giới của Trịnh Công Sơn, tình hình lại có vẻ như ngược lại. Con người trở thành thước đo của thiên nhiên: Nắng có hồng bằng đôi môi em Mưa có buồn bằng đôi mắt em Tóc em từng sợi nhỏ Rớt xuống đời làm sóng lênh đênh (...) Ta nghe nghìn giọt lệ Rớt xuống thành hồ nước long lanh (Như Cánh Vạc Bay) ở đây, nắng được mang ra để so sánh với đôi môi em; mưa, với đôi mắt. Đó là một vị thế đảo ngược trong sự so sánh. Tóc em rớt xuống đời làm thành sóng, chứ không phải lênh đênh như sóng. Nước mắt em rơi xuống thành, chứ không như, hồ nước long lanh. Tóc và những giọt nước mắt em trở nên những hình ảnh trung tâm, những hình ảnh ở ngôi thứ nhất để, từ đó, chúng được phản chiếu, khúc xạ vào thiên nhiên. Những thao tác nghệ thuật này gần với ẩn dụ hơn là với so sánh, cho dù “ẩn dụ” thì cũng là một loại tu từ dùng để so sánh. Thế nhưng, chúng lại đưa ra những ảnh hưởng khác biệt nhau, tạo ra những nét gần như đối nghịch về mặt nhận thức trên cảm quan thẩm mỹ của người thưởng ngoạn. Cũng thế, trong bài Níu Tay Nghìn Trùng, lời ca của người tình trẻ rớt thành cơn mưa: Từ bờ môi hát lên nhè nhẹ Từ lời ca rớt thành cơn mưa Chúng ta có thể tìm được nhiều thí dụ khác nữa. Chẳng hạn: Đã có nghìn trùng trên môi người tình Đã chớm lạnh lùng trên môi nồng nàn “Môi người tình” là nơi để người yêu cảm nhận nỗi cách xa “nghìn trùng”, cảm nhận sự chia ly và nhìn thấy hình ảnh của chiếc bóng trăm năm. Hình ảnh “đêm thấy ta là thác đổ” cũng mang chứa trong nó nét trung tâm của chủ thể “ta”. Cũng như vậy, trong: Ôi áo xưa em là một chút mây phù du Đã thoáng qua đời ta Trịnh Công Sơn, qua biện pháp ẩn dụ, đã đưa hình ảnh “áo em ngày xưa” vào trong khung cận ảnh, phóng lớn nó lên, để cho thấy hình ảnh lênh đênh trôi nổi của áo em (như mây nhẹ); hay đúng hơn, kết hợp chung với biện pháp hoán dụ (dùng áo để chỉ người), câu hát cho thấy hình ảnh vô thường của em, của liên hệ giữa tôi và em, những liên hệ rất phù du mây nổi, và chút mây kia cũng đã trôi về một biên giới khác. Hình ảnh “ôi áo xưa lồng lộng / đã xô dạt trời chiều” cũng đem “áo xưa” vào cận ảnh, để cả một khung trời chiều bé nhỏ lạc mất phía sau, và càng lúc càng bị mất vị thế trung tâm qua trạng từ “dạt”. Thiên nhiên bị những hình ảnh con người lấn chiếm, để càng lúc càng bị đẩy xuống vị trí thứ yếu. Trong bài “ở Trọ”, có câu: Mây kia ở đậu từng không Mưa nắng ở trọ bên trong mắt người Có phải là Trịnh Công Sơn đã lấy mắt người để đo thời tiết không? Mưa nắng ở trong mắt. Và mắt ấy là mắt của một người con gái. ở đây, không phải con người nằm trong thiên nhiên mà, ngược lại, thiên nhiên nằm trong con người. Nhìn vào em, tôi thấy thiên nhiên và tất cả những mưa nắng cuộc đời. Nhưng em, dù có đẹp và có thu trọn thiên nhiên trong mình đấy, cũng không phải là sẽ còn lại mãi với cuộc đời này. Em cũng chỉ là một cái chớp mắt, một cái vụt qua của cuộc sống: Đôi mắt còn lại nhìn đời là không Nhìn em hư vô, nhìn em bóng nắng (Con Mắt Còn Lại) Tác giả thấy rõ em là bóng nắng, là hư vô. Em không phải như những ảo ảnh phù du kia, đang tan đi tan đi và biến mất. Em chính là sự phù du, em đang lung linh, hư ảo, và tan đi. Bóng nắng, một nét thiên nhiên, nếu có còn rớt lại đâu đó, chỉ cho thấy rõ là em, con người, đã ra đi mà thôi. Thiên nhiên, như thế, lại hóa ra là một nét của con người. Chứ không phải là ngược lại. Câu hỏi “Mầu nắng hay là mầu mắt em”, trên bề mặt hình thức, đặt hai chủ thể ngang nhau; nhưng dưới mạch ngầm lại để “mầu mắt em” vào vị trí trung tâm. Câu “Quỳnh thơm hay môi em thơm” cũng thế, cũng cho ta thấy rõ tác giả thiên vị “môi em” nhiều hơn, cho dù nụ quỳnh cũng là một hình ảnh đáng yêu của trần gian. Như thế, trong thế giới của Trịnh Công Sơn, con người, đặc biệt là người nữ, trở nên nổi bật. Nhìn kỹ, người nữ ấy hiện diện như một bản vị. Nó đứng độc lập, hay được đặt để vào những vị trí để giúp cho thiên nhiên được nhận diện một cách rõ nét hơn. Nó là ánh cầu vồng bảy sắc phản chiếu hình ảnh thiên nhiên lung linh và đẹp đẽ này. [...] Trịnh Công Sơn là một nghệ sĩ lớn. Điều đó có lẽ chúng ta đều có thể công nhận với nhau, dù chúng ta có đứng ở bất cứ vị trí hay góc độ nào để nhìn ngắm, quan sát hay đánh giá anh. Có những người không ngại gọi anh là một thiên tài. Họ có cái lý của họ. Tôi nói Trịnh Công Sơn là một nghệ sĩ lớn theo cái nghĩa mà con người trên thế giới nói chung, bất kể là họ sống dưới chủ nghĩa nào hay khoác trên mình những màu áo khác nhau nào, đã dùng để nói về Pablo Neruda, Pablo Picasso, Paul Eluard, Jean-Paul Sartre, Romain Rolland, v.v..., hay để nói về bất cứ một nghệ sĩ lớn nào khác của nhân loại đã cống hiến cho con người những rung động thiết tha, đẹp đẽ. Những nghệ sĩ lớn ấy, trong những hoàn cảnh riêng của mình, đã mở ra cho con người những viễn tượng mới. Họ đem đến cho con người những thế giới mới, hay, nói cho đúng hơn, họ đem lại cho con người những cái nhìn mới về thế giới, về cuộc đời. Họ làm con người trở nên giàu có hơn về mặt tinh thần. Từ trong những hang đá cổ sơ, con người đã nhìn thấy và tìm ra những giấc mơ và những mộng ước của mình. Và họ đã để lại dấu tích của những mơ ước đó trên các vách đá mà con người thời đại ngày nay vẫn còn đang lần dò tìm hiểu. Nghệ thuật gắn liền với ước mơ, và nó là cái đến trước. Đến trước lúc con người tìm ra cách kéo sợi, dệt vải, và dùng các loại thuốc nhuộm mà nó sáng chế ra để nhuộm các màu xanh đỏ đen vàng cho quần áo của mình. Nghệ thuật có mặt trước khi con người biết lợi dụng, mạt sát, lên án và chém giết nhau qua sự phân chia của những mầu áo. Nó là tiếng nói đầu tiên của con người để xác nhận trước thiên nhiên và cuộc đời cái dấu ấn mà Thượng Đế, kẻ sáng tạo, đã để lại trong nó. Tất cả những giải thích khác về cuộc đời, kể cả tiếng nói của chính trị, là những cái đến sau. Trịnh Công Sơn là một con người sống trong cuộc đời. Anh phải chấp nhận những giới hạn của cuộc sống, nhưng đồng thời anh cũng đã cất lên tiếng nói của mình để mơ ước và hoài vọng những điều tốt đẹp cho anh, cho những người thân yêu, những người chung quanh, và cho cả nhân loại, nói chung. Dù sao, nhìn một cách nào đó, có thể anh là kẻ đã đến quá muộn trong một thế giới đã “tam sao thất bản”. Một thế giới đã không còn y nguyên bản gốc. Một thế giới đã chia năm xẻ bảy với những màu quần áo sặc sỡ khác nhau. Trong bối cảnh của lịch sử, chiến tranh và xã hội Việt Nam, tiếng nói của anh có thể đã bị tô mầu, có thể đã bị lợi dụng. Và cái thân xác mỏng manh của anh có thể đã bị giằng kéo từ cả bên trong lẫn bên ngoài. Cái thân xác ấy là thân xác của một con người. Nhưng tiếng nói ước mơ của Trịnh Công Sơn có lẽ không hẳn chỉ là tiếng nói của một con người. Những giấc mơ cũng như cái thế giới mà anh vẽ ra là những giấc mơ và thế giới của bao nhiêu con người thiết tha với cuộc đời này nhưng vẫn nuôi nấng trong trái tim mình những mầm hạt cho một cuộc sống đẹp đẽ, đáng yêu và thơ mộng hơn nữa. Những giấc mơ vẫn cố bay lên cao, cho dù nhiều khi chúng bị giằng giật và bị dìm kéo xuống dưới đất bằng. Con người còn sống là con người còn những mơ ước. Và những nghệ sĩ lớn là những người thiết tha với những giấc mơ của mình hơn bất cứ ai. Cho dù đó là những giấc mơ nhỏ bé hay những mộng tưởng thơ ngây. Trịnh Công Sơn là một thi sĩ. Anh sống trong thời đại của mình, và anh có những giấc mơ. Và, nói như Jirí Wolker, “Qua nhà thơ, người ta nhìn ra được tầm cỡ của thời đại mà ông ta sống”. Có lẽ, nếu muốn, chúng ta cũng thấy được tầm cỡ của thời đại mình qua những giấc mơ và thế giới mà Trịnh Công Sơn đã sống, đã yêu và đã cùng xót xa với chúng. Trịnh Công Sơn là một nghệ sĩ lớn. Anh đã yêu trần gian này biết bao, và anh đã hiểu được thế nào là hạnh phúc và xót xa trong cuộc sống của anh với trần gian này. Anh cũng đã mơ thật đẹp những giấc mơ của mình. Cho dù là chúng rộn vui tiếng cười hay đầy tràn nước mắt. Chúng ta là những người được chia sẻ những giấc mơ đó. Hãy nghe anh nói, và, nếu có thể, hãy khóc cười, hãy đau khổ và hạnh phúc cùng anh. Đừng tô mầu những giấc mơ của anh. Hãy để chúng y nguyên như thế. Vì, cẩn thận, có thể chúng ta sẽ tự đánh mất mình trong việc bóp méo hay chà đạp những giấc mơ của người khác. Nhất là giấc mơ của một nghệ sĩ, kẻ, như Robert W. Corrigan nói, “là máy đo độ chấn động của thời đại hắn.” Trịnh Công Sơn đã làm chúng ta yêu cuộc đời này hơn qua chính những vẻ đẹp mong manh của nó. Anh cũng làm cho chúng ta thiết tha yêu thương con người hơn, muốn gắn bó với mọi người chung quanh hơn. Trịnh Công Sơn làm được tất cả những điều ấy qua những giấc mơ nhỏ bé của anh. Và Trịnh Công Sơn đã để lại những giấc mơ của anh ở trần gian này. Chúng ta, mỗi người, hãy tự nhìn lại những giấc mơ của chính mình. Irvine, California 2 tháng IX, 2001 _____________________________________________ Chú Thích: (1) Trong cái nhìn của tôi, phương pháp xếp chồng văn bản của Charles Mauron chỉ là một trường hợp đặc biệt của phương pháp sử dụng liên văn bản. Liên văn bản nối kết nhiều loại văn bản khác nhau, từ nhiều nguồn, nhiều trung tâm văn hóa khác nhau, để làm thành một “tấm vải” đan kết chằng chịt bởi những trích dẫn khác biệt. Những “tấm vải” này sẽ có hình dáng khác nhau trong sự nhìn ngắm cụ thể của mỗi một người đọc. Với kinh nghiệm, cá tính, cùng tất cả những yếu tố khác tạo nên con người đặc thù của mình, người đọc sẽ nhìn ra trong tác phẩm mình đang đọc dần dần hiện lên hình dáng “tấm vải văn bản” của tác phẩm mà người ấy đang tiếp cận. Từ đó, dẫn đến ý nghĩa của tác phẩm đối với riêng người ấy. Khái niệm “liên văn bản”, như thế, gắn bó chặt chẽ với vai trò và cá tính của người đọc. Từ đó, nó lại liên hệ đến phương pháp phê bình dựa trên sự hồi ứng của người đọc (reader-response criticism). Và, nói rộng hơn, nó liên hệ đến mỹ học tiếp nhận (reception theory) phát xuất từ trường phái Kontstanz của Đức. Phương pháp liên văn bản thường sử dụng không những các văn bản có tính văn học khác để soi chiếu một tác phẩm, mà nó còn sử dụng các huyền thoại, truyền thuyết như là những nguồn, cung cấp những dữ kiện, những hình ảnh, những yếu tố để, qua đó, mỗi người đọc đặc thù tự “dệt” nên “tấm thảm văn bản” cho chính mình. Trong khi đó, phương pháp xếp chồng văn bản thường chỉ sử dụng những tác phẩm khác nhau của một tác giả, hoặc “chồng” các văn bản cùng thể loại của một số tác giả khác nhau được nghiên cứu để tìm những đường nét của huyền thoại tập thể; từ đó, cũng làm phát hiện huyền thoại cá nhân của mỗi tác giả. Mauron đã xếp chồng một số tác phẩm của Baudelaire để tìm hiểu những ẩn dụ ám ảnh của nhà thơ này. Ông cũng đã làm thế với Mallarmé để tìm hiểu hệ thống từ vựng, từ đó, đi đến hệ thống ẩn dụ của nhà thơ. (2) Có tác giả lại nghĩ rằng phương pháp liên văn bản có thể được coi là đã xuất hiện khi nhà phân tâm học Freud so sánh những giấc mơ điển hình về sự khỏa thân với truyện cổ tích của Andersen về bộ quần áo “trong suốt” của ông vua trong bộ sách “Phân Giải Những Giấc Mơ”. Freud đi từ văn bản để phát hiện ra con người vô thức của tác giả; từ những xung đột nội tâm trong các nhân vật của tiểu thuyết để tìm ra xung đột cá nhân nơi chính con người nhà văn. Khá rõ nét về sự thể hiện phương pháp liên văn bản trong công trình của Freud là, trong tác phẩm “Ba cái hộp”, ông không chỉ bằng lòng trong việc so sánh một số tác phẩm cùng chủ đề của Shakespeare với nhau, mà ông còn tìm ra cùng đề tài đó trong huyền thoại và truyền thuyết. Từ đó, ông tìm ra được các lớp vỏ khác nhau của cùng một chủ đề. Những lớp vỏ này đưa đến sự phát hiện cả những điểm khác biệt chứ không chỉ những điểm đồng nhất khi ông nghiên cứu về một chủ đề. (3) Roland Barthes, Image-Music-Text, do Stephen Heath dịch và biên tập, New York: Hill & Wang, 1977. (4) Roland Barthes đã nhìn như một “văn bản” để khảo sát các hiện tượng và biểu tượng như: trò đô vật, tháp Eiffel, quần áo, để tìm ý nghĩa hiện tượng học của chúng. Tôi cũng đã viết một bài, nhìn cinéma như một văn bản, để khảo sát cấu trúc ý nghĩa của nghệ thuật phim ảnh. Xin xem “Cinéma, một văn bản đầy kỳ bí” (Hợp Lưu số 43, tháng 10 & 11, 1998) (5) Từ “ngôn ngữ” được sử dụng ở đây không mang ý nghĩa bình thường, hay ý nghĩa từ điển, của nó. Đúng hơn, có thể nói nó là một thứ “ngôn ngữ diễn dịch và lý luận”. Như thế, ở đây, “ngôn ngữ” gần như đồng nghĩa với “phương pháp”. Như trong câu, “Nếu hai người không cùng nói chung một thứ ngôn ngữ [cho dù họ đều nói tiếng Pháp chẳng hạn], làm sao họ có thể thảo luận về vấn đề này được.” Như thế, “ngôn ngữ” ở đây là nền tảng để nhìn vấn đề. Một thứ phương pháp luận. Một hướng diễn dịch, một hướng nhìn. Phương pháp luận này bao trùm lên những kỹ thuật, tự chúng cũng là những phương pháp, được sử dụng trong bài như phương pháp xếp chồng văn bản, phương pháp sử dụng liên văn bản, và phương pháp sử dụng những thao tác phân tích phong cách học, v.v... (6) Claude Lévi-Strauss, La Pensée Sauvage, Paris: Librairie Plon, 1962. (7) Bài “Biển Nhớ”, trong một số sách nhạc, câu “Bàn tay chăn gió mưa sang” bị đánh lộn là “Bàn tay chắn gió mưa sang”. Điều đó làm mất hẳn đi cách dùng chữ tài hoa và đầy sáng tạo của người nhạc sĩ. Trong văn cảnh của bài hát, “chắn gió mưa sang” trở nên lạc, không thích hợp với khí hậu và tinh thần chung của toàn bài, trong đó, ta thấy có “triều sương ướt đẫm cơn mê”, có “hồn liễu rũ”, “bờ cát trắng”, “biển động”, “sầu lên”, “cồn đá rêu phong rũ buồn, đèn phố nghe mưa tủi hờn”... Thật ra, trong bản nhạc rời in ở Việt Nam thời sáu mươi, tôi đã thấy nhà xuất bản in đúng là “chăn gió mưa sang”. Trong tập nhạc “Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên” (nhà xuất bản Trẻ, Saigon, 1991), in lại tại Mỹ cùng năm (nhà xuất bản Hồng Lĩnh, Westminster, California), tất cả các bài hát đều do chính tay Trịnh Công Sơn viết chữ lấy, câu hát này đã được viết và in đúng. Trong tuyển tập “Những Bài Ca Không Năm Tháng” của Trịnh Công Sơn do nhà xuất bản Âm Nhạc tái bản lần thứ tư, tôi còn thấy khá nhiều những ca từ của người nhạc sĩ bị đánh máy sai. Nếu không để ý ngay từ bây giờ, khoảng một vài trăm năm sau (!), nếu bể dâu cuộc đời vẫn cho phép những bài hát này sống sót và được lưu giữ, chắc lúc đó, vấn đề nghiên cứu văn bản sẽ lại là một chuyện nhức đầu cho những người sau. Giống như bây giờ chúng ta đang nhức đầu với các văn bản của người đời xưa để lại. (8) Ernest Hemingway, The Old Man and The Sea, New York: Charles Scribnerõs Sons, 1952. Trích: “He always thought of the sea as la mar which is what people call her in Spanish when they love her. Sometimes those who love her say bad things of her but they are always said as those she were a woman. Some of the younger fishermen, those who used buoys as floats for their lines and had motoboats, bought when the shark livers had brought much money, spoke of her as el mar which is masculine. They spoke of her as a contestant or a place or even an enemy. But the old man always thought of her as feminine and as something that gave or withheld great favours, and if she did wild or wicked things it was because she could not help them. The moon affects her as it does a woman, he thought.” (9) Dĩ nhiên, Biển Nhớ và Nắng Chiều chỉ là những thí dụ bất chợt của tác giả bài viết này để so sánh hai hơi thở của thời đại. Có thể làm điều này bằng cách lấy một bài hát khác của Trịnh Công Sơn để so sánh với một ca khúc khác của một tác giả thời Lê Trọng Nguyễn, hay trước và sau đó một chút. Chúng ta cũng có thể đi đến một hệ quả tương tự. Tuy nhiên, trong cảm thức của tôi, dù cho đó có là những thí dụ bất chợt, chúng vẫn, ở một mức độ nào đó, biểu hiện trung thực cả cảm xúc lẫn nhận thức của tôi về những tiếng nói của người nghệ sĩ. Chúng phản ánh cả một hơi thở của thời đại. Có lẽ, đúng hơn, nó chính là hơi thở của thời đại. Cũng giống như nhạc thời Nắng Chiều khác nhạc thời Biển Nhớ thế nào, thì nhạc thời Biển Nhớ cũng khác nhạc thời sau Biển Nhớ như vậy. (10) Xem Thích Nhất Hạnh, Trái Tim Mặt Trời: Từ Chánh Niệm Đến Thiền Quán. Paris: Lá Bối, 1982. Bản dịch tiếng Anh, The Sun My Heart: From Mindfulness to Insight Contemplation. Berkeley, California: Parallax Press (không rõ năm in).
|
nguồn: Văn Học
|