bài viết




Trịnh Công Sơn và Những Phố Xa - Phần 1

--- Ngự Thuyết ---


Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn


Hai câu thơ trên của Bà Huyện Thanh Quan không dính dáng gì đến nhạc Trịnh Công Sơn (TCS) cả. Thế mà lạ, mỗi khi lẩm nhẩm những bài ca của anh nói đến phố phường, những bài ca loại này nhiều lắm, tôi liên tưởng ngay đến viễn phố của Thanh Quan. Mà viễn phố đâu có nghĩa là phố xa.

Hay là vì thơ Thanh Quan thường buồn, hai chữ viễn phố càng gợi nên cảnh tượng hoang sơ, cô liêu? Và nhớ. Hai câu thơ trên nằm trong bài Chiều Hôm Nhớ Nhà. Nhà thơ nhớ, chứ không phải ngư ông nhớ. Ngư ông sau một ngày lênh đênh trên sông nước lại trở về bến xa (viễn phố), bến cũ, buông tay, gác mái. Trở về như chàng mục tử chiều hôm lùa đàn trâu, đàn bò về chuồng nghỉ ngơi, trở về như con chim buổi tối bay về tổ ấm, về nơi trú ẩn an toàn để ngủ qua đêm. Trở về như có một chốn nhất định để đi về.
Chứ đâu phải như TCS trong Một Cõi Ði Về:


Ði đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
...
Chẳng biết nơi đâu là chốn quê nhà


Chứ đâu phải như những phố xa, phố lạ, phố hoang tàn như trong nhiều bài nhạc của TCS vào những tháng năm về sau của cuộc đời.

Thế mà “phố xa” của TCS vẫn khiến tôi liên tưởng đến “viễn phố”. Có lẽ ngôn ngữ trong ca từ của TCS thường sử dụng liên tuởng cho nên khi nghĩ đến nhạc của anh tôi không khỏi liên tưởng đến nhiều tình huống khác. Hay cũng có thể trong tư duy, liên tưởng nhiều khi có tính cách tình cờ, tùy tiện, thất thường - và TCS cũng thường có lối liên tưởng như thế.

Lẽ dĩ nhiên liên tưởng chỉ là một trong những lối diễn ý của nhạc sĩ tài ba đó. Trong nhạc TCS còn có những nét tượng trưng, siêu thực, hiện thực v.v... hoặc một chút thiền vị vào lúc cuối đời. Và ngay cả kỹ thuật collage (tạo hình bằng cách kết hợp những yếu tố, những mảnh rời khác nhau và có vẻ không ăn nhập gì với nhau, như thực tế cuộc sống vốn là như vậy) cũng được sử dụng. Có lẽ cũng vì thế ngôn ngữ của anh có khi bị phê bình là phi lý, mơ hồ, tối tăm, chắp vá, bừa bãi, tản mạn, không theo một lô-gích nào cả. Tuy nhiên ta có nên đòi hỏi một bài ca phải chuyên chở một tư tưởng thâm trầm, một nội dung phong phú, một mẩu chuyện có đầu, có đuôi, có lý, có lẽ? Hay một bài ca thường chỉ cần nói lên một xúc động, hoặc chụp bắt một tia chớp, một âm ba, một tiếng vang, một bóng dáng của cuộc sống, hoặc chỉ cần gợi lên một cảm nghĩ, tạo nên một ấn tượng, là đủ.

Thử nghe vài ca khúc phổ biến của Tây phương. Bài Yesterday chẳng hạn. Bài này rất nổi tiếng của nhóm The Beatles trong đó nhạc và lời quyện vào nhau làm một làm say mê nhiều thế hệ thanh niên trên khắp thế giới. Có gì trong bài ca đó? Chàng và nàng yêu nhau, rồi xa nhau. Tại sao? Có lẽ tại chàng đã nói điều gì lầm lỗi (Why she had to go I don’t know she wouldn’t say - I said something wrong now I long for yesterday). Thế thôi. Lời ca dễ dãi, bình dị. Một bài nổi tiếng khác của Neil Diamond, Alan Bergman, Marilyn Bergman, You Don’t Bring Me Flowers, do Neil Diamond cùng hát với danh ca hàng đầu của Mỹ là Barbra Streisand. Cũng bằng những lời lẽ rất đơn sơ:

You don’t bring me flowers
You don’t sing me love songs
You hardly talk to me anymore
When you come through the door
At the end of the day ...
(Anh không mang hoa cho em
Anh không hát cho em nghe những bài ca yêu đương
Anh dường như không nói với em nữa
Cuối ngày khi anh về bước qua khỏi cửa...)


Những lời hờn trách đại khái như thế lặp đi lặp lại cho đến cuối bài. Và thế là họ chia tay. Vâng, một ca khúc thường thường chỉ cần nói lên như thế là đủ.
Mấy bản nhạc đầu tiên của TCS, khoảng 1957- 1959, cũng có lối phô diễn giản dị như hai thí dụ nói trên – Ướt Mi, Lời Buồn Thánh, Thương Một Người ... và một số ca khúc “phản chiến”. Về sau nhạc TCS, như ta đã nêu ở trên, được viết bằng ngôn ngữ phức tạp hơn nhiều.

Nhạc Trịnh Công Sơn? Nhạc mà thôi hay ngụ ý nhạc và lời? Có thể tách lời ra khỏi nhạc, và ngược lại, hay không?

Có người cho rằng lời của TCS hay quá, hàm súc quá, nhiều chất thơ quá, nên thường nhạc không bắt kịp lời. Có người còn nói rằng TCS là nhà thơ, một nhà thơ lớn. Có thể như thế không? Nhưng thử tách riêng lời ca ra khỏi điệu nhạc, điều không nên làm đối với bất cứ nhạc sĩ nào, ta không thể nào gặp đuợc những bài thơ hay, cho dù, công bình mà nói, rải rác trong nhiều ca khúc của TCS, ta gặp nhiều chất thơ. Thỉnh thoảng, điều này rất hiếm đối với bất cứ nhạc sĩ nào kể cả TCS, ca từ mang dáng dấp một bài thơ nho nhỏ, khá hoàn hoàn chỉnh, nằm gọn trong một ca khúc:

Một hôm bước chân về giữa chợ
chợt thấy vui như trẻ thơ
Ðời ta có khi là đốm lửa
một hôm nhóm trong vườn khuya
Vườn khuya đóa hoa nào mới nở
đời ta có ai vừa qua...

(Ðêm Thấy Ta Là Thác Ðổ)

hoặc:

Ghế đá công viên dời ra đường phố
Người già co ro chiều thiu thiu ngủ
Người già co ro buồn nghe tếng nổ
Em bé lõa lồ khóc tuổi thơ đi ...

(Người Già Em Bé)

hoặc:

Trên đời người trổ nhánh hoang vu
Trên ngày đi mọc cành lá mù
Những tim đời đập lời hoang phế
Dưới mặt trời ngồi hát hôn mê
Dưới vòng nôi mọc từng nấm mộ
Dưới chân ngày cỏ xót xa đưa

(Cỏ Xót Xa Ðưa)

Chép xong đoạn ngắn trên, tôi lại liên tưởng ngay đến bài thơ của Du Tử Lê mới đăng trên báo Văn số Xuân Giáp Thân:

em thinh lặng, và hàng cây cũng thế
chở thời gian đàm tiếu ở trên cành
rụng xuống: Cho mầm non chuyển dạ
tôi qua đời: Ðể có lại em, xanh!
(nghiệp đôi ta: thinh-lặng-bướu-ân-tình)


Hai đoạn thơ trên đều hay, đều có cành, có cây, có lá, có nói đến chết chóc, nhưng ý tưởng hoàn toàn khác nhau. Trong khi Du Tử Lê bình thản, đôn hậu thì ở TCS bi kịch đã xuất hiện và đang bao trùm lên trên thân phận con người.
Hãy trở lại câu hỏi trên: Có thể tách lời ra khỏi nhạc, và ngược lại, hay không? Hãy chọn một bài ca thật hay làm thí dụ. Nhiều người đồng ý rằng Thiên Thai của Văn Cao là một trong những bài ca hay nhất trong tân nhạc Việt Nam. Nhưng thử hỏi lời ca của bài đó có thể đứng riêng rẽ mà vẫn mang một giá trị tự tại? Không, một khi tách ra khỏi nhạc, ca từ có chỗ hụt hẫng, lạc lõng, có chỗ cũn cỡn như con chim bị cắt đôi cánh. Nhiều bài ca của Phạm Duy hay của Trịnh Công Sơn cũng nằm trong trường hợp ấy. Nhưng khi nhạc và lời quyện vào nhau, nâng niu nhau, bài ca sẽờ có đời sống khác, rất phong phú, rất lôi cuốn. Con chim đã được trả đôi cánh để bay bổng lên trời cao.

Ngoài ra, lời ca của một ca khúc không nhất thiết phải là ngôn ngữ đàm thoại hằng ngày, hoặc ngôn ngữ của văn xuôi, ngôn ngữ của thơ. Nó đã có lãnh thổ riêng của nó, ngôn ngữ riêng của nó, nó nằm trong một phạm trù khác, không nhất thiết phải lệ thuộc vào ngôn ngữ bình thường, vào văn phạm hay ngữ pháp thông dụng. Lời ca đôi khi nghe như tiếng nói của người cổ sơ, của trẻ thơ bập bẹ, của tiềm thức, của vô thức, của loài cầm thú, của Mẹ Thiên Nhiên. Lời ca còn có khi muốn vươn đến cõi vô ngôn. Và nó quyện vào nhạc làm thành một thể nhất quán. Vô ngôn trong ca khúc để vươn đến thế giới huyền nhiệm của âm điệu mà thôi, đó là giấc mơ của nhạc sĩ.

Bài Gánh Lúa của Phạm Duy là một kiệt tác trong đó lời và nhạc bất khả phân. Tương tự như thế, bài Bống Bồng Ơi! của TCS.

Ðó là vấn đề của ca từ. Còn phần nhạc của bài ca có thể đứng riêng ra được không? Lẽ dĩ nhiên ở đây ta đang nói đến nhạc trong ca khúc chứ không phải nhạc thuần túy, hay nhạc cổ điển. Những bản nhạc của Văn Cao như Thiên Thai, Suối Mơ, Trương Chi, của Phạm Duy như Con Ðường Cái Quan, Cỏ Hồng, Dạ Lai Hương, của Lê Thương như Hòn Vọng Phu I, II, III, của Ðỗ Nhuận như Tiếng Hát Sông Thao, của Nguyễn Mỹ Ca như Dạ Khúc, của Phạm Ðình Chương như Hội Trùng Duơng, của Hùng Lân như Hè Về, của Dương Thiệu Tước như Thuyền Mơ, của Nguyễn Văn Thương như Ðêm Ðông, của Cung Tiến như Nguyệt Cầm, của Ngô Thụy Miên như Dấu Tình Sầu v.v... khi được độc tấu hay hòa tấu (chứ không phải đơn ca hoặc hợp xướng) đều có thể tạo nên xúc động lớn trong lòng người yêu nhạc. Như thế có nghĩa là trong một ca khúc, phần âm điệu, thanh nhạc, trong nhiều trường hợp, có thể đứng riêng một mình. Nói một cách khác, phần nhạc đóng vai chủ chốt. Phần này nếu hỏng, bài ca sẽ không còn giá trị nữa. Ngay cả một bài thơ hay được một nhạc sĩ bất tài nào đó phổ nhạc, thì kết quả là ca khúc ấy sẽ rất gượng gạo, sống sượng. Người nghe chỉ muốn gạt bỏ cái cùm là phần nhạc đi để có thể được tự do đọc lên bài thơ theo cảm hứng, ngẫu hứng cuả mình, hoặc theo vần, điệu đã có sẵn trong thơ. Trong trường hợp này, rõ ràng là nhạc không chắp cánh cho thơ bay bổng, mà đã biến thành của nợ.

Những nhận xét trên đưa đến kết luận rằng một nhạc sĩ thành công khi phần nhạc trong bài ca có giá trị. Một nhạc sĩ được yêu chuộng khi phần nhạc đóng vai cốt cán. Nếu lờợi ca cũng hay, tức là lời ca ăn khớp với ngôn ngữ riêng biệt của khúc nhạc, càng tốt.

Nhiều người thích nhạc TCS, hay nói cho chính xác hơn, thích những ca khúc của anh. Tại sao? Là vì, trước hết, phần nhạc trong những ca khúc đó rất hay. Có thể nói rằng nhạc của anh khá đơn giản. Những bài nổi tiếng thường được viết bằng nhịp điệu nhẹ nhàng, êm ái, hoặc chầm chậm, trầm trầm, những blues, slow, boston, với một giọng buồn buồn như tiếng thở dài, kể lể, và thường sử dụng âm giai (gam) la thứ, la trưởng, mi thứ, mi trưởng. Rất ít bài nhanh nhẹn, giục giã như Biết Ðâu Nguồn Cội (nhịp 2/4, đô trưởng), Ở Trọ (nhịp 2/4, la trưởng), Con Mắt Còn Lại (nhịp 4/4 điệu swing, la trưởng) chẳng hạn. Trong Hồi Ký Phạm Duy, Phạm Duy nhận định “Toàn thể ca khúc Trịnh Công Sơn không cầu kỳ, rắc rối, vì nằm trong một số nhạc điệu đơn giản, rất phù hợp với tiếng thở dài của thời đại.” Ở một đoạn khác, Phạm Duy viết tiếp: “Toàn bộ âm nhạc của anh đẹp như một bức họa trừu tượng hơn là tả thực. Cả nhạc lẫn lời, cả xác lẫn hồn thơ, nghe lãng đãng, mơ hồ khó phân định cho đúng nghĩa.” Ðó là những nhận xét xác đáng.

Như trên đã nói, một ca khúc hay, trước hết phần nhạc phải hay. Nhạc TCS cũng không ra ngoài định lệ đó. Tôi còn nhớ một lần về thăm quê hương, một buổi tối ngồi một mình trong phòng lễ tân của một khách sạn chờ một người bạn, quanh đó có nhiều du khách Tây phương, Nhật, Ðài Loan v.v... đang ngồi uống rượu và chuyện trò rì rầm giữa những điệu nhạc huyên náo và những tiếng động tạp âm khác. Bỗng tiếng dương cầm, chứ không phải tiêng hát, trổi lên từ một đĩa CD. Tôi nhận ra ngay đó là bài Tuổi Ðá Buồn của TCS. Cả phòng bớt ồn ngay, người ta có vẻ chú ý dần. Tiếp theo, cũng tiếng dương cầm, là bài Ru Ta Ngậm Ngùi, cũng của TCS, khi thì trầm lắng, khi thì thánh thót, réo rắt, khi thì kéo dài như tiếng than. Căn phòng bỗng trở nên hoàn toàn im lặng, những cái ly được nhẹ nhàng đặt xuống mặt bàn, những ánh mắt trầm ngâm. Ðiệu nhạc dứt mà dư âm của nó trong lòng người nghe là tôi vẫn xôn xao. Một dịp khác, ở hải ngoại, trong một bữa tiệc tất niên đang ồn ào náo nhiệt, thì một một vị quan khách lên sân khấu xin góp vui bằng tiếng kèn. Vị đó dùng saxophone thổi bài Hạ Trắng. Tiếng kèn, điệu kèn ai buốt trong tôi, chữ của TCS trong Chiếc Lá Thu Phai, làm mọi người bàng hoàng. Tiếng kèn chấm dứt bằng những tràng pháo tay vang dội. Ðược yêu cầu biểu diễn thêm, vị khách tài hoa ấy thổi bài Chiều Một Mình Qua Phố. Không khí bữa tiệc hoàn toàn đổi khác, mọi người như được tiếng nhạc đưa vào một cõi khác, huyền ảo, say đắm, mơ màng, bâng khuâng. Âm thanh ấy, lại quyện với những lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ (nhận xét của Văn Cao về TCS: Nhạc TCS ... thấm vào lòng người như suối tươi. Với những lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ hôn phối cùng một kết cấu đặc biệt ...) đã khiến cho nhạc của anh không những có một sức thu hút lớn lao đối với chúng ta đã đành, mà còn chinh phục lòng ngưỡng mộ của người nước ngoài.

Những người mê nhạc TCS bảo rằng nhạc của anh không có bài nào dở cả, hầu hết đều hay hoặc trên trung bình mà thôi. Người viết bài này chỉ mong trong 10 bài của anh có một bài hay là đủ, và nếu được thế, đóng góp của anh cho nền âm nhạc Việt Nam đã lớn lao lắm rồi. Với một công trình đồ sộ khoảng 600 ca khúc, TCS có thể có đến 60 bài hay chăng! Tôi có chủ quan và lạc quan lắm không? Có người suốt đời chỉ viết được mươi bài mà vị tất đã có được vài ba bài giá trị.

Phần trình bày vừa rồi hơi dài dòng nhằm nêu lên sự kiện rằng khi nghe nhạc của TCS, hay bất cứ nhạc của ai, người thưởng ngoạn cần phải quan tâm tính cách nhất quán của nhạc và lời. Dùng con dao mổ xẻ để tìm cách cắt lời ra khỏi nhạc, rồi đem ngôn ngữ phê bình văn học để phân tích một cách chi ly, gò ép từng câu, từng chữ, trong ca từ thì chỉ có thể tạo nên những chướng ngại không vượt qua nổi khi muốn tiếp cận lãnh vực nghệ thuật vô cùng tinh vi, và kỳ diệu này.

TCS đề cập đến rất nhiều vấn đề – chuyện tình, chuyện phản chiến, chuyện quê hương, chuyện đời, chuyện thân phận con người, chuyện siêu hình, vài nét hiện sinh trong giai đoạn đầu, một ít thiền vị v.v... trong giai đoạn cuối. Bài viết ngắn này không có tham vọng nhận định tổng quát những vấn đề vừa nêu. Người viết bài này chỉ thử ném một cái nhìn vào một góc nhỏ của bức họa toàn cảnh của TCS: Những phố phường, những phố xa.



nguồn: www.dactrung.com
  Trịnh Công Sơn:
> bài hát
> bài viết
> hình ảnh
> phỏng vấn
> bút tích
> dòng thời gian

Những người mến mộ:
> những kỷ niệm
> bài viết
> tưởng niệm
> tin tức
> sách
> lưu bút

Khánh Ly


Phố Xưa


- 20 bài mới nhất



Một hình ảnh ngẫu nhiên:






Gia Sư: Gia Đình + Sinh Viên
 
Address: www.SuuTap.com/TrinhCongSon - Collection: Hoang Truc Ly - Design & script: Sony Ho