bài viết




Phong Trào Da Vàng Ca - Phần 1

--- Lê Trương ---


Vào năm 1966, cuộc chiến Việt Nam trở nên dữ dội hơn. Bom đạn trút xuống quê hương càng ngày càng nhiều, lính ngoại quốc đổ bộ lên đất nước càng ngày càng đông. Những phong trào tranh đấu ở các đô thị bị đàn áp tơi bời. Biến cố miền Trung được mang tên là “một cuộc nội chiến trong một cuộc nội chiến”: Máy bay, xe thiết giáp, lính thiện chiến của chính quyền trung ương Sàigòn tấn công các thành phố Huế, Đà nẵng.

Giữa lúc đó, cũng chính từ miền Trung, có một chàng lãng tử gầy ốm với vầng trán rộng và nụ cười héo hắt đã mang vào Nam hai bài ca nghe rất buồn thảm: bài Người già em bé và bài Ca dao mẹ. Một đám người tới với chàng, họ ngồi dưới đất, trong bóng tối và hát tuyệt vọng như những người nô lệ da đen đêm đêm ngồi than khóc phận mình. Từ đó, tiếng hát lan ra khắp các đô thị, tới đâu nó cũng đi sâu vào lòng người, làm rung lên như một dây đàn từ lâu chờ người gãy. Phong trào càng ngày càng dâng lên cao, nhất là sau biến cố Mậu Thân để rồi không có một sức mạnh nào ngăn cản nổi nữa. Chúng tôi gọi đó là phong trào DA VÀNG CA.
Năm 1966, cuộc chiến Việt Nam lại được mang thêm một tên mới: Chiến tranh diệt chủng. Tất cả khả năng cơ khí của nền văn minh Tây phương đều được tận dụng vào cuộc giết người rất khủng khiếp này. Nông dân Việt Nam đã chịu đựng cảnh bom đạn trong nhiều năm nay, càng ngày sức tàn phá của chiến tranh lại càng gia tăng.

Trịnh Công Sơn đã mô tả sự bi đát hãi hùng của thân phận da vàng Việt Nam trong những lời ca sau:

Từng chuyến bay đêm, con thơ giật mình,
Hầm trú tan hoang, ôi da thịt vàng …
Hàng vạn tấn bom trút xuống đầu làng,
Cửa nhà Việt Nam cháy đỏ cuối thôn.

(Đại bác ru đêm)

Đó là thân phận của nông dân Việt Nam. Nay các đô thị cũng nhiều phen chìm trong khói lửa. Người dân thành phố không những đêm đêm nghe tiếng bom dội về làm rung chuyển cả thành phố mà còn sống trong cảnh tàn phá hủy hoại của bom đạn. Chết chóc đã xuất hiện đầy rẫy trong những đường phố:

Xác người nằm trôi sông, phơi trên ruộng đồng,
Trên nóc nhà thành phố, trên những đường quanh co.
Xác người nằm bên nhau, treo trên gầm cầu,
Trong góc nhà đổ nát, dưới những hàng thông sâu.
Xác người còn xương khô, trong khắp bụi mờ,
Sau những đường phố vắng, trên góc đường mấp mô.

(Bài ca dành cho những xác người)

Trước những biến cố mới đó, quần chúng đô thị bắt đầu hiểu một cách thấm thía cuộc chiến tranh đã kéo dài từ bao lâu nay. Nông thôn cũng như thành thị giờ đây không có một tất đất nào trên quê hương thân yêu này được coi là an toàn. Chiến tranh toàn diện, chiến tranh giành thắng lợi, cho dù thắng lợi là làng mạc hay thành phố biến thành đống tro tàn gạch vụn, trên đó những người được nhân danh cho cuộc chiến này nằm chết ngổn ngang. Cái hình ảnh:

Người già co ro, em bé lõa lồ,
Từng hạt cơm khô, trong miếng hững hờ,
Từng bàn tay khô lấp kín môi cười,
Từng cuộn dây gai xé nát da người,
Cửa nhà Việt Nam, cháy đỏ cuối thôn …

(Người già, em bé)

Giờ đây cũng chính là hình ảnh của quần chúng đô thị. Nó không còn là một câu chuyện của một chàng lãng tử ngang qua thành phố kể cho họ nghe trong những cảm giác đau nhức, thú vị. Đó là sự thật. Giờ đây họ thật sự sống trong chiến tranh, cho nên những lời ca đó chính là những lời ca nói về họ. Họ bắt đầu tham dự cuộc chiến tranh. Do đó, sinh hoạt văn nghệ cũng thể hiện rõ ràng cái tâm trạng của họ.

Quần chúng trí thức đô thị càng ngày càng thích nghe Ca khúc da vàng, Tình ca Trịnh Công Sơn. Và chỉ trong một thời gian ngắn, loại nhạc này đã trở thành những rung cảm chung của quần chúng đô thị, tạo nên một phong trào văn nghệ rất đặc biệt :

1. Đặc tính thứ nhất của phong trào này là phủ nhận cảnh nồi da xáo thịt.

Giữa lúc những người Việt đang tham dự một cuộc chém giết nhau, gán cho nhau là tay sai của đế quốc này hay đế quốc nọ, thì chính trong thâm tâm họ, họ luôn luôn muốn phủ nhận cái cảnh nồi da xáo thịt đó. Họ đã từ bỏ con người của họ để mang những nhản hiệu cho mình, cho người anh em của mình để đánh nhau trên khắp các chiến trường. Thế nhưng, khi họ quên hết những nhãn hiệu đó, khi họ xóa bỏ những chiếc mặt nạ mang cho nhau thì họ lại thấy gần gũi nhau, yêu thương nhau :

Tôi có người yêu chết trận Plei-me,
Tôi có người yêu ở chiến khu D,
Chết trận Đồng Xoài, chết ngoài Hà nội,
Chết vội vàng dọc theo biên giới …

(Tình ca người mất trí)

Họ thấy những người chết trong cuộc chiến tranh khủng khiếp này là những người yêu, những người anh em của họ, cho dù những người này ở Plei-me, ở chiến khu D, ở ngoài Hà nội, ở Chu Prong, A Shau, hay bất cứ nơi nào trên giải đất Việt Nam thân yêu này. Tất cả là anh em cùng một màu da, đã cùng nhau trong hành trình vĩ đại của giống nòi từ miền Triết Giang đổ về để hình thành dân tộc Việt Nam. Tất cả là người yêu của họ. Yêu nhau là chấp nhận những đắng cay, ngọt bùi của nhau như câu ca dao : ‘‘Gừng cay muối mặn, xin đừng bỏ nhau’’. Không những tôi nhìn nhận anh là người anh em, mà tôi còn coi anh là người yêu, là gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau, là ‘‘gần nhau trong tiếng nói da vàng’’.

Vậy thì tại sao lại có cảnh nội chiến ? Đây là lời tố cáo :

Hai mươi năm nội chiến từng giờ,
Gia tài của mẹ, một bọn lai căng,
Gia tài của mẹ, một lũ bội tình …

(Gia tài của mẹ)

Sự xuất hiện của hai chữ lai căng trong văn nghệ mang nhiều ý nghĩa quan trọng. Lai căng tức là từ bỏ con ngườI văn hóa dân tộc của mình để biến thành một người khác. Đó là trường hợp của những người nô lệ muốn thoát khỏi cảnh tình nô lệ của mình bằng cách chối bỏ khinh rẻ con người của chính mình và muốn trở thành như chủ nhân ông ngoại bang, cùng với nó cai trị những người nô lệ khác. Bọn lai căng đó trở thành một lũ bội tình dân tộc, vì luôn luôn đứng sát với ngoại bang để bóc lột, giết hại đồng bào của họ. Dĩ nhiên, bọn người này không còn là người Việt nữa, nhưng họ vẫn còn da vàng, mũi tẹt. Do đó ngoại bang mới tạo được cái ảo tưởng nội chiến, một ảo tưởng nằm trong chiêu bài của họ để che mất chế độ thực dân, nô lệ. Người Việt đã cảm thấy điều đó, cho nên dù đang ở trong cái thế chống đối nhau, tự trong thâm tâm của họ, họ vẫn thấy yêu nhau, gần nhau:

Tôi muốn yêu anh, yêu Việt Nam,
Ngày gió lớn, tôi đi môi gọi thầm,
Gọi tên anh, tên Việt Nam,
Gần nhau trong tiếng nói da vàng.

(Tình ca người mất trí)

2. Đặc tính thứ hai của phong trào là nói lên tâm trạng nạn nhân của một cuộc chiến.

Cái bi thảm nhất là ở chỗ : tay của người Việt ít nhiều đều vấy máu anh em mình, người yêu của mình. Tự trong thâm tâm họ là anh em, là người yêu của nhau, nhưng trên thực tế họ chém giết nhau, nhìn nhau xa lạ. Rồi khi kẻ xa lạ đó nằm xuống, bổng nhiên nó không còn xa lạ nữa, mà chính là những người yêu. Những người yêu đó đã:

Bỏ xác trôi sông,
Chết ngoài ruộng đồng,
Chết rừng mịt mùng,
Chết lạnh lùng,
Mình cháy như than.
Chết cong keo,
Chết vào lòng đèo,
Chết cạnh gầm cầu,
Chết nghẹn ngào,
Mình không manh áo.

(Tình ca người mất trí)

Trong cuộc chiến tranh này, không ai ca khúc khải hoàn, không ai nằm chết trong vinh quang. Những người yêu đó đã:

Chết thật tình cờ,
Chết chẳng hẹn hò,
Chết không hận thù,
Nằm chết như mơ.


Vậy thì đây là cái chết do một trận địa chấn, một cơn hồng thủy. Một cái chết không nằm trong dự tính của họ. Họ bị một thứ gông cùm xiềng xích vô hình xô đẩy họ vào mâu thuẫn, hận thù, nhưng tận trong thâm sâu của tâm hồn họ, họ không thấy sự mâu thuẫn, hận thù mà chỉ thấy một màu da thơm mùa lúa chín, thấy yêu nhau, thấy gần nhau trong tiếng nói Việt Nam. Như vậy thì quả dân tộc ta đang gặp một cơn đại nạn. Và triệu người đã chết bất đắt kỳ tử, chỉ là nạn nhân của một cuộc chiến tranh phát xuất từ đâu tới, chớ không phải từ trong lòng anh em Việt Nam.



nguồn: Nguyễn Thảo Long
  Trịnh Công Sơn:
> bài hát
> bài viết
> hình ảnh
> phỏng vấn
> bút tích
> dòng thời gian

Những người mến mộ:
> những kỷ niệm
> bài viết
> tưởng niệm
> tin tức
> sách
> lưu bút

Khánh Ly


Phố Xưa


- 20 bài mới nhất



Một hình ảnh ngẫu nhiên:






Gia Sư: Gia Đình + Sinh Viên
 
Address: www.SuuTap.com/TrinhCongSon - Collection: Hoang Truc Ly - Design & script: Sony Ho